Theo số liệu từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), quý 1/2021, sản lượng điện sản xuất và nhập khẩu toàn hệ thống đạt 59,65 tỷ kWh, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, thủy điện huy động 13,86 tỷ kWh, tăng 55,4% so với cùng kỳ năm ngoái; năng lượng tái tạo huy động 7,79 tỷ kWh, tăng 180,6% so với cùng kỳ năm trước; với điện mặt trời huy động 7,13 tỷ kWh.
Ngoài ra, nhiệt điện khí huy động 7,44 tỷ kWh, giảm 21,4%; nhiệt điện than huy động 29,75 tỷ kWh, giảm 12,4%; điện nhập khẩu 405 triệu kWh, giảm 58% so với cùng kỳ năm 2020.
Trong quý 1/2021, sản lượng điện thương phẩm toàn EVN ước đạt 50,81 tỷ kWh, tăng 3,2% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, trong giai đoạn này, EVN gặp một số thách thức trong huy động nguồn linh hoạt.
Cụ thể, các tổ máy thủy điện phải thay đổi linh hoạt công suất để bù đắp thay đổi năng lượng tái tạo, ảnh hưởng đến an ninh cấp điện cuối mùa khô; tăng số lần khởi động/thay đổi công suất các tổ máy nhiệt điện than, tuabin khí, làm tăng nguy cơ sự cố tổ máy…
Như vậy, việc huy động các nguồn điện hàng ngày cần được tính toán hợp lý, cơ cấu nguồn phải đảm bảo có dự phòng để đáp ứng không những các thay đổi của phụ tải tiêu thụ điện mà còn với các thay đổi bất thường của chính các nguồn năng lượng tái tạo với mức độ thay đổi hàng nghìn MW trong vài giây.
Nhìn chung, trong 3 tháng đầu năm, việc điều hành cung ứng điện đã bám sát nhu cầu nhu cầu điện cả nước và tại các khu vực, đảm bảo huy động các loại nguồn điện phù hợp với tình hình thủy văn, đồng thời đảm bảo cấp nước hạ du và sản xuất nông nghiệp.
Liên quan đến công tác kinh doanh và dịch vụ khách hàng, từ năm 2020, EVN đã triển khai thí điểm việc tích hợp các hệ thống kỹ thuật và kinh doanh nhằm giảm số thủ tục và rút ngắn thời gian giải quyết các yêu cầu cấp điện mới.
Trong 3 tháng đầu năm 2021, chỉ số SAIDI (thời gian mất điện kéo dài trung bình của khách hàng) là 262,7 phút, giảm 43,9%% so với cùng kỳ năm 2020; chỉ số SAIFI (tần suất mất điện kéo dài trung bình) là 2,02 lần, giảm 28,87% so cùng kỳ năm 2020. Tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không dùng tiền mặt đạt 67,52%. Tỷ lệ số tiền điện được thanh toán không dùng tiền mặt toàn EVN đạt gần 90%.