Fang Tiantian vẫn nhớ lại nỗi đau mà cô trải qua lúc còn nhỏ, khi mẹ và cha cô gói ghém đồ đạc và bỏ cô lại ngôi làng ở tây nam Trung Quốc. Vào đầu những năm 90, quê hương cô ở tỉnh Quý Châu rất nghèo và con đường thoát nghèo duy nhất là tìm việc ở các thành phố.
Tuy nhiên, hơn 20 năm sau, Fang lại đi theo bước chân của cha mẹ. Ngay sau khi sinh con, cô và chồng quay trở lại công việc ở Thượng Hải – để lại cô con gái nhỏ của họ ở Quý Châu, cách đó hơn 2.000 km.
Những đứa trẻ “bị bỏ lại phía sau”
Một mô hình đang lặp lại trên khắp các vùng nông thôn Trung Quốc, khi mà các bậc làm cha mẹ quyết định để lại con nhỏ phía sau, với sự thiếu thốn tình cảm, để lên thành phố kiếm sống, giống như cái cách ngày trước cha mẹ đã để họ lại. Nhiều thập kỷ sau khi làn sóng di cư ồ ạt đầu tiên của Trung Quốc bắt đầu vào những năm 90, các rào cản kinh tế và chính sách vẫn khiến nhiều người lao động nhập cư không thể mang theo con cái đến các thành phố.
Mặc dù số trẻ em bị bỏ lại đã giảm trong những năm gần đây, nhưng con số này vẫn còn rất lớn. Tính đến tháng 8 năm 2018, chỉ có dưới 7 triệu trẻ vị thành niên đang sống ở khác thành phố với cả cha và mẹ, giảm tương đối mạnh so với số lượng 9 triệu vào năm 2016, theo Bộ Dân sự Trung Quốc. Tuy vậy, có tới hàng triệu – có thể là hàng chục triệu trẻ em – đang phải sống thiếu cha hoặc mẹ, mặc dù các nhà chức trách Trung Quốc không còn xếp những đứa trẻ này vào nhóm “bị bỏ rơi” nữa.
Một cậu bé đang xem TV một mình ở Quý Châu, Trung Quốc.
Đối với nhiều lao động nhập cư, hệ thống đăng ký cư trú của Trung Quốc – hay còn gọi là hộ khẩu – vẫn là một trở ngại không thể vượt qua ngăn cản họ chuyển gia đình đến thành phố. Mặc dù người Trung Quốc ở nông thôn được tự do di chuyển đến các khu vực thành thị, nhưng họ thường không thể có được quy chế cư trú vĩnh viễn.
Điều này hạn chế quyền tiếp cận của người di cư đối với một loạt các dịch vụ công quan trọng – bao gồm giáo dục, chăm sóc sức khỏe và nhà ở – khiến cho việc nuôi sống một gia đình bằng mức lương của tầng lớp lao động là không thể.
Và như vậy, ở một số vùng, gia đình ly tán đã trở thành một thực tế, cha mẹ và con cái không còn coi việc sống xa nhau năm này qua năm khác là điều bất thường nữa.
Các nghiên cứu liên tiếp đã phát hiện ra rằng những đứa trẻ bị bỏ rơi có thể bị tổn thương tâm lý nghiêm trọng, trạng thái cảm xúc của chúng tiêu cực hơn đáng kể so với những đứa trẻ khác và chúng gặp nhiều khó khăn hơn trong giao tiếp. Nhiều đứa trẻ còn cảm thấy oán hận sâu sắc đối với cha mẹ, thậm chí hơn 10% coi mẹ và cha như là “đã chết”.
Nỗi đau khó xoa dịu
Vụ việc 4 đứa trẻ bị bỏ rơi ở vùng nông thôn Quý Châu tự sát bằng cách uống thuốc trừ sâu do thiếu tình cảm từ bố mẹ đã gây ra làn sóng phản đối kịch liệt trên toàn quốc, đưa hoàn cảnh của những đứa trẻ bị bỏ rơi lên chương trình nghị sự chính trị của Trung Quốc. Đầu năm 2016, Quốc vụ viện, Nội các Trung Quốc, đã đặt ra mục tiêu “giảm đáng kể” số trẻ em bị bỏ lại vào năm 2020. Trong những năm tiếp theo, chính quyền Trung Quốc đã thông qua một loạt cải cách nhằm khuyến khích các gia đình nông thôn ở lại cùng nhau. Chiến lược “phục hồi nông thôn” đã cố gắng tạo ra việc làm ở nông thôn, trong đó chính quyền địa phương hỗ trợ những người di cư muốn chuyển về quê hương để khởi nghiệp.
Chính phủ cũng thực hiện những thay đổi mang tính bước ngoặt đối với hệ thống quản lý hộ khẩu, ra lệnh cho các thành phố có dân số từ 1 triệu đến 3 triệu người cho phép người di cư đăng ký làm cư trú vĩnh viễn. Các thành phố lớn hơn, đặc biệt là các siêu đô thị như Bắc Kinh và Thượng Hải, vẫn duy trì các rào cản đối với việc đăng ký hộ khẩu, nhưng cũng tạo điều kiện cho trẻ em nhập cư đi học dễ dàng hơn. Những nỗ lực này đã đạt được một số thành công. Vào năm 2019, ước tính có khoảng 8,5 triệu lao động nhập cư đã trở về quê hương, so với 2,4 triệu vào năm 2015. Những người khác đã quay trở lại các thành phố ở tỉnh nhà, khi các chủ doanh nghiệp ngày càng chuyển từ các vùng ven biển của Trung Quốc đến các tỉnh miền Trung và miền Tây có chi phí thấp hơn.
Do sự chênh lệch đáng kể về trình độ phát triển giữa các khu vực của Trung Quốc – chẳng hạn như GDP bình quân đầu người của Thượng Hải cao gấp ba lần so với Quý Châu – người di cư thường miễn cưỡng trở về quê hương.
Và việc nuôi dạy trẻ em khi là người di cư ở các thành phố lớn vẫn còn nhiều thách thức như trước đây. Mặc dù nhiều bậc cha mẹ cố gắng, họ vẫn thường buộc phải gửi con về quê khi chúng học xong tiểu học do tình trạng thiếu chỗ học tại các trường trung học cơ sở công lập. Mỗi năm, khoảng 70.000 học sinh trung học cơ sở rời các thành phố Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu và Thâm Quyến để trở về vùng nông thôn Trung Quốc. Những “trẻ em bị trả lại” này hiện chiếm hơn 20% học sinh tại các trường nội trú nông thôn, nơi các em thường dễ bị lạm dụng và bắt nạt.
Trong khi đó, ở một số làng, sự ly tán trong gia đình vẫn là một điều bình thường. Liu Yue, hiệu trưởng một trường mẫu giáo nông thôn ở trung tâm tỉnh Hà Nam, ước tính rằng 70 trong số khoảng 100 học sinh của cô là trẻ em bị bỏ rơi.
Vòng lặp bao giờ mới kết thúc?
Liu nói: “Một nửa số bạn bè của tôi ở đây sẽ không bỏ lại con cái, bởi vì tất cả chúng tôi đều biết cảm giác khi bố mẹ ở xa. Chúng tôi không muốn con mình trải qua điều tương tự.”
Cô cũng chia sẻ: “Tôi hiểu rằng những đứa trẻ bị bỏ rơi cần được giao tiếp và ở gần với cha mẹ nhiều hơn, vì vậy tôi cố gắng dành cho chúng nhiều cái ôm hơn mỗi ngày. Điều tốt là công nghệ hiện đại đã giúp cha mẹ giữ liên lạc với con cái dễ dàng hơn, ngay cả khi chúng sống ở cách xa hơn cả nghìn km.” Cô ấy chụp rất nhiều ảnh của các học sinh của mình trong giờ học, chia sẻ chúng với phụ huynh của những đứa trẻ thông qua WeChat vào mỗi thứ Sáu. Do đó, thế hệ thứ hai của những đứa trẻ bị bỏ rơi có mối quan hệ thân thiết với cha mẹ hơn nhiều so với thế hệ của cô.
Jiang Nengjie, một nhà làm phim 35 tuổi đến từ tỉnh Hồ Nam, chia sẻ rằng khi còn là một đứa trẻ, anh không thể quên nỗi đau khổ mà anh và các anh chị em của mình sẽ cảm nhận khi mẹ anh phải trở lại Quảng Châu sau Tết, biết rằng phải gần 12 tháng nữa họ mới được gặp mẹ lần sau.
“Tôi sẽ không bao giờ bỏ lại các con của mình”, Jiang nói.
Ở Thượng Hải, Fang và chồng cô chỉ gặp con gái mỗi năm một lần, khi thẩm mỹ viện cho Fang nghỉ 10 ngày để trở về Quý Châu trong dịp Tết Nguyên đán. “Mỗi lần quay lại, tôi cảm thấy cô gái của mình đã trưởng thành hơn rất nhiều, nhưng chúng tôi ngày càng ít giao tiếp hơn”. Trong thời gian Lễ hội mùa xuân năm ngoái, cuối cùng cô ấy đã dành hơn hai tháng cho con gái, nhưng người mẹ đã phải đau lòng khi nhìn thấy đứa con 9 tuổi lấy trộm tiền của ông bà nội, sau đó nói dối về hành vi trộm cắp đó. Cô cũng nhận ra con gái mình chưa bao giờ được dạy nói “không” với người lạ.
Cùng với đó, Fang cũng nhận thấy rằng một số dân làng đã chuyển về quê và kiếm sống bằng việc bán nông sản thông qua các nền tảng livestream. Cô đã có một cuộc nói chuyện nghiêm túc với chồng và cuối cùng họ đã đồng ý: Sau lễ hội mùa xuân vào tháng tới, họ sẽ cùng nhau trở về Quý Châu. Fang nói: “Trước đây, bố mẹ tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc làm việc ở thành phố. Nhưng bây giờ chúng tôi có nhiều cách để kiếm tiền tại nhà. Vậy tại sao tôi phải bỏ con gái mình lại?”.
Theo Sixthtone